Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2016

Đọc "Hương xưa Sài Gòn"




Tình cờ đọc bài trên fb của Huyền Linh share từ một người bạn, cảm xúc ùa về. Đó là bài viết của một người con nhà văn Nhất Linh về căn nhà của Mẹ -tức bà Nhất Linh Nguyễn Tường Tam-. Bài viết thu hút mình, đọc một mạch từ đầu tới cuối dù rất dài.
Có nhiều chi tiết cuốn hút mình theo từng dòng chữ về không gian, thời gian cũ, con người của thế hệ ấy và những điều liên quan ít nhiều gợi nhớ trong tâm hồn mình.

Trước hết là về hình ảnh chợ An Đông, chung cư An Đông, con đường Nguyễn Duy Dương, ngôi trường bên kia đường hồi ấy của người Hoa, giờ là Trường Lý Phong, khung cảnh chợ búa, những hàng quán trên vỉa hè, những người buôn bán hoa quả trên lề đường được miêu tả từ trước năm 1975 cũng hiện lên rõ mồn một vì ngày xưa mình cũng từng thường đi trên những con đường, khu chợ ấy. Và sau này lại càng quen thuộc hơn, vẫn những người bày bán trái cây từ các tỉnh miền Tây lân cận rất tươi ngọt mà mình thường xuyên ghé ra mua... Đó là không gian gần gũi gắn bó với mình từ xưa xa và cả xưa..gần đây.

Kế đến là hình ảnh Người Mẹ, tức bà Nguyễn Tường Tam (tên chồng), bà chủ hiệu buôn cau Cẩm Lợi! Ơi, cái tên đã hơn một lần nghe Ba mình kể và là một nhân vật trong những trang viết của anh Phan Ngộ mình. Ngày xưa còn thơ bé ở làng Mỹ Lợi ngoài quê, một làng quê thời ấy rất là trù phú. Đã từng có câu ca dao địa phương dí dõm mà ngụ ý ca ngợi làng mình:
          Ai không lấy chồng Mỹ Lợi là quê,
          Trước sông, sau biển, chợ kề một bên!
Đó là một ngôi làng trải dài theo triền cát và bờ biển, mặt kia là những ruộng lúa với con lạch nhỏ ăn thông với đầm phá nước lợ Cầu Hai (Một phần phá Cầu Hai nối liền Vịnh Lăng Cô, bãi biển Mũi Chân Mây ngày nay là một trong những cảnh quang du lịch nổi tiếng của Thừa Thiên Huế). Trong làng thời ấy trồng cau, quýt cam và mía...Thời xa xưa ấy, hình như từ 1945, đất nước còn thông thương với những chuyến tàu lửa xuyên Việt. Có một người buôn cau Hà Nội, Bà rất giàu có. Từ thời ấy đã có những căn nhà đồ sộ kiến trúc theo kiểu Pháp giữa vườn cây ăn trái sum sue những ổi xá lị, quýt Hương Cần, Cam Xã Đoài ...và rất nhiều cây cảnh. Bà cũng sở hữu những căn nhà lầu ở phố chợ Mỹ Lợi mà khi mình lớn lên, cuối thập niên 50, bắt đầu thập niên 60 vẫn còn sừng sững, vang dội tiếng tăm dành cho ba người con trai, lúc bấy giờ bà đã về Trời nên mình không biết mặt. Chỉ được nghe kể qua sự kính trọng của mọi người. Bà là vợ Ông Phan văn Lâu, có ba người con trai theo học vừa Hán học lẫn Tây học rất giỏi. Một trong ba vị ấy là thân phụ Phan Binh, em họ của mình. Ba vị ấy mình gọi bằng Chú, vai em của Cha mình. Vì Ông Nội mình và Ông Nội của Phan Binh là anh em.( Nhưng bên phía Ông Nội mình thì nghèo. Hihi..). Cho nên khi lớn lên, nghe mọi người kể về những chuyến hàng cau chở ra Hà Nội bằng tàu lửa, rồi anh Phan Ngộ viết người bạn hàng buôn cau ở Hà Nội của Mệ Thầy (Tên gọi đầy sự kính trọng của mọi người dành cho Bà vì Ông thường được gọi là Ông Thầy Lâu.) rất thân thiết phải kể đến Bà Cẩm Lợi là vợ của Nhà Văn Nhất Linh trong Tự lực văn đoàn. Ơi, sao mình nghe như những nhân vật trong truyện Cổ tích, đầy huyền bí và lôi cuốn! Những con người, những cái tên cứ nghĩ từ ở đâu đó mơ hồ, xa xăm lắm...Vậy mà khi đọc bài viết hôm qua thấy như hiển hiện cả một thời thơ bé...

Cũng không thể bỏ qua các chi tiết về Người Mẹ ấy với cái cân bàn để cân cau, về cách cư xử nhân ái với người ăn kẻ làm trong nhà và các bạn của con Bà. Tôi bỗng dưng nhớ Mạ mình da diết... Nhớ hình ảnh Mạ cũng buôn cau khô lẫn cau tươi trong suốt những năm tháng từ khi mình bắt đầu hiểu biết cho đến năm 1968, Mậu Thân, cả nhà rời khỏi Huế. Nhớ Mạ mua cau từ dưới quê, gửi từng giỏ cau tươi, từng bao cau khô lên Huế để những nhà buôn lớn ở đó đóng gửi vô Sài Gòn. Thời chiến tranh, không có đường giao thông tàu hỏa, lại càng không thể bằng đường bộ. Tất cả đêu bằng đường hàng không. Từ sân bay Phú Bài đến sân bay Tân Sơn Nhất. Nhưng máy bay vẫn có thể hoảng chuyến bay vài ngay, có khi tuần lễ là chuyện bình thường. Vậy cho nên cau tươi sẽ dễ dang héo úa và rụng trái, dễ dàng lỗ vốn. Có lẽ vì vậy mà Bà Cẩm Lợi khi di cư vô Nam rồi, chỉ buôn bán cau khô. Cái chi tiết mấy đứa con của bà, trong đó có tác giả bài viết, luôn được bà gọi đến để tính sổ mỗi chuyến cau về hoặc bán đi sao mà giống như anh em mình quá! Ôi những-bà-Mẹ-của-thế-hệ-tần-tảo-giỏi-giang-buôn-bán-và-tính-nhẫm bỗng dưng bừng sống dậy trong tâm hồn mình như những tượng đài vững chải dể cho tuổi thơ bé chúng tôi nương tựa. Hồi đó, Mạ mình có "nét cười đen nhánh sau tay áo", người phụ nữ có hàm răng đen hạt huyền ấy vẫn thường "nhờ" anh em chúng mình viết vào sổ, tính sổ và viết thư kèm theo những bao hàng gửi cho các tiệm buôn lớn là bạn hàng trên Huế. Vì vậy, mình xí xọn thêm vào những câu thăm hỏi, "quảng bá" hàng tốt...nên lâu lâu được theo Mạ đến chơi, luôn được các bà chủ xoa đầu khen, cho quà hoặc cho tiền ăn bánh trong chợ Đông Ba...

Cái vụ bửa và sấy cau khô mình cũng "rành sáu câu" vì dưới làng Mỹ Lợi nhiều nhà chuyên với công việc này. Người ta hái những buồng cau vừa"giầy", cau giầy nghĩa là vừa tròn đầy hột cau ở bên trong, trắng mịn màng có những tia hông hồng, nhai trầu vừa dẽo, -không còn non nghĩa là hạt quá mềm, còn chỗ khuyết, thậm chí có chút nước (những trái cau non có chút nước ngọt ngọt, tụi nhỏ thường mút mút và có lúc ngây ngây như say lúc ăn trầu)- cũng không để già nghĩa là hạt cau đã cứng, dao bổ không "ngọt". Cau hái về, vặt ra từng trái rồi róc vỏ, cắt chõm cau, bổ ra từng miếng đều đặn, đổ lên sề và được úp sấp miếng cau, sắp xếp thành hàng kín mặt sề, nhìn rất đẹp. Sề là những vật dụng bằng tre đan thưa như rỗ, sàng, đường kính có thể từ 1m -1,5m tùy theo đường kính của cái bồ. Bồ cũng được làm từ tre đan kín, cao khoảng ngực người lớn dùng để bên ngoài cái nhút (lâu lắm rồi, không biết đúng tên không) đắp bằng đất sét, đáy nhỏ, phía trên loe ra, đường kính phù hợp với bộ lồng bồ sề. Trong nhút để tro và than. Than luôn được ủ kín bằng một lớp tro vừa phải và luôn được "chăm sóc" để không nóng quá mà cũng không nguội lạnh quá. Than vừa nóng đều và cau cũng vừa lứa, không già không non, được sắp đều đặn...sẽ cho một mẽ cau khô vừa ý người mua. Nghĩa là hạt cau đỏ màu huyết dụ dính vào miếng vỏ cau cong cong, phía ngoài lưng màu trăng ngà tươi tắn, phía trong đọng nhựa cau lúc sấy ứa ra lợt hơn màu của hạt...Trong quá trình sấy cau, người ta có thể cho những hủ muối hột để dưới than hồng từ lúc đầu, sau một đêm, một ngày, cau vừa xong mẽ thì cũng có hủ muối hầm nhuyễn như muối i ốt sấy bây giờ vậy. Vào mùa làm cau khô, mọi người luôn được ăn những món hầm như giò heo, đuôi bò...chỉ việc để trong nhút than hồng rồi lấy ra, không cần nấu nướng. Sắp nhỏ có thể ké củ khoai , củ sắn vùi tro thơm lựng...

Nghề làm cau khô ngày ấy tuy không nhọc nhằn vất vả nhưng rất tốn thời gian. Mình vẫn tự hỏi sao người ta tiêu thụ nhiều thế! Nó là một nghề hẳn hoi và người ta buôn bán rất quy mô, phát triển. Giờ đây, thế kỷ 21, chắc không còn mấy ai giữ lại, tha thiết với nghề này vì cũng còn ít người trồng cau. Có chăng, chỉ dùng những buồng cau trong nghi thức cưới hỏi và ơ ngoài chợ, các Bà bán lẻ để mọi người mua về trong lễ nghi cúng Ông Bà. Nhớ hồi thập niên 80 thế kỷ trươc, sau lễ ăn hỏi và cưới, mình muốn tặng trầu cau cũng khó tìm người...


Đọc bài của bạn share trên fb có nhiều chi tiết nữa nhưng những hình ảnh vừa nhắc trên đây vừa quen mà vừa hiếm thấy, lại chạm đến những kỷ niêm từ thuở ấu thời. Cám ơn những cảm xúc quý báu mang chút gì hoài cổ, là hương xưa nên khó thể phôi phai.





Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016

Thao thức...






Mới đọc bài của Nguyễn Ngọc Tư về những-người đàn-bà-vẽ-đêm, những người Mẹ, những Bà Ngoại cứ giữa đêm thao thức... Ơ, sao mà Cô ấy viết về tâm trạng hay đến thế!

Và mình cũng có những lần thức giấc giữa đêm...
 Mấy đêm nay thức giấc từ rất sớm. Có đêm 2giờ, đêm sau trễ hơn xíu và cứ y như vậy. Thức dậy có làm gì đâu, đi ra đi vô, ra phòng khách hết ngồi tới nằm rồi đứng bên cửa kính nhìn qua khoảng đường rông, sân chơi trẻ con đèn sáng trưng khắp mọi nơi. Rồi ra phía trước nhìn đèn sáng trưng soi một dãy những chiếc xe dưới sân nhà. Rồi vô, lại leo lên giường ôm con bé một cái. Nó lại hỏi Mẹ dậy làm gì sớm và níu Mẹ bắt phải ngủ đi. Nhưng có bữa ngủ tiếp được, có lúc cứ nằm thao thức tới gần 6g dậy pha cà phê uống.
 



Thức giấc giữa đêm không phải vì lạ nhà mà có lẽ vì đã quen nhà, giờ sắp rời cái chỗ đã gần quen nên lòng cứ bồi hồi, bổi hổi! Bắt đầu xếp dọn cho nó vài thứ, súc cái lọ đựng tiêu, lau cái lò vi sóng, mua vài thứ ở siêu thị gần nhà lúc nó đi làm, nấu sẵn cất trong ngăn đá mai mốt đỡ mất công nấu vài ngày. Về thấy, nó bảo Mẹ làm chi cho cực, con chế biến đơn giản lắm! Chiều nào đi làm về Mẹ cũng bắt ăn thứ này thứ kia. Nó kêu: Chà, con tròn lắm rồi đó! Và chị em nó lại ríu rít "kể tội" Mẹ hay bắt " Ăn đi con! Ăn đi con! từ đứa lớn tới đứa nhỏ, từ con, rễ cho tới cháu, lúc nào Mẹ cũng bắt ăn! Hi hi". Tụi nó nói làm mình cũng phì cười vì thấy đúng là mình cứ thấy sắp nhỏ như còn thớ bé lắm, nhắc từng miếng ăn miếng uống... Ờ, mà con nhỏ này cũng thơ bé thiệt đó chứ! Đôi khi nói chuyện hai mẹ con, thấy nó còn rất hồn nhiên và con nít!




Buổi sáng, đi bộ thể dục một vòng khoảng hơn giờ. Vẫn đi quanh trên những con đường lạ-đã-thành-quen, những ngôi nhà cổ kính, những hàng cây vươn cao, những khu vườn , cụm hoa nhu mì e ấp khoe sắc dịu dàng. Những con đường có nắng mơn man trên má và gió lao xao trên đầu...Không gian êm đềm thiệt! Và trong bụng đã bắt đầu nghe-những-bồn-chồn-xao-xuyến...











Thứ Ba, 2 tháng 8, 2016

Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều...





Buổi chiều. Ở quê nhà khoảng thời gian trong ngày như thế này là đã hết 8 giờ làm việc. Ngày xưa, xưa hơi xa xa, lúc mới lấy chồng, sắp có con, đi dạy buổi chiều, giờ này đã tan trường, tất bật về nhà cơm nước. Có nghĩa là sắp tối. Nhưng ở đây, bây giờ, lúc đã U 70, có con đi làm 10 tiếng mỗi ngày, 4 ngày trong tuần, giờ này mặt trời vẫn còn ở trên cao, nắng mịn màng vuốt ve cành lá, ấp ủ những bãi cỏ xanh mượt mà và cùng mỉm cười với muôn hoa. Bầu trời xứ này không cao nhưng trong xanh và có những cụm mây trắng tinh khiết ung dung, lơ lững... Đôi khi ngồi trong nhà nhìn qua cửa kính trong suốt, tưởng tượng đủ thứ hình ảnh như ngày xưa rất xưa-thuở thơ bé ngoài Huế-buổi rạng đông nhìn những vầng mây rồi hình dung đủ thứ hình người, hình búp bê, hình sư tử, hình con chó, con mèo, hình bà Tiên với mái tóc trắng bồng bềnh...

Buoi chieu ngot nhu trai cherries





Vì bây giờ đang là mùa Hè nên ngày dài như vậy và không gian nắng ấm hiền hòa, dễ chịu. Mùa Đông chắc là ngày thu ngắn lại và không gian chung quanh đầy tuyết trắng. Con đường phía sau chỗ con ở sát với sân trường học sinh nhỏ có khu play ground rất rộng. Hồi cuối năm, nó viber cho tấm hình đầy tuyết. Vậy mà giờ bên đường và trong sân mượt mà cỏ xanh, nhiều cây hoa cũng chen nhau khoe sắc và từng mảng hoa dại nở hồn nhiên càng làm cho cảnh vật dễ thương hơn...


Cuộc đời xưa nay người ta thường nói luôn phải có sự cân bằng, dung hòa hai khía cạnh, ví như có cương thì phải có nhu, có nóng thì phải có lạnh..v.v..tóm lại là có này thì phải có kia...thì mới ổn! Cũng như có trải qua gian khổ rồi thì mới thấy được ý nghĩa của sự bình yên vậy đó mà! Có lẽ cái xứ này nó hài hòa như vậy nên người ta sống có vẻ rất ... an hòa. Không quá nhộn nhịp như ở Sài Gòn và lại càng ít hối hả hơn bên Mỹ. (Dĩ nhiên đây chỉ là nhận xét của một người luôn ngồi dưới cái khung tròn hay vuông của bầu trời trên giếng). Họ có vẻ nhẩn nha, từ tốn nhẹ nhàng như một người bình tĩnh nhấp từng ngụm trà hay cà phê nóng để tận hưởng hương vị của nó từ hương cho đến vị.
Đi trên những con đường tràn ngập màu xanh, xanh của cỏ, của cây lá to nhỏ trong vườn, xanh của hồ nước trong veo thi thoảng gặp, xanh của bầu trời. Và không chỉ trồng hoa trên đất chung quanh nhà, trên ngõ vào nhà, người ta còn treo những giỏ hoa rất dễ thương quanh lối vào, trên bậc thang, bên cửa sổ...

Sự yên tĩnh của không gian đôi lúc làm mình ngẩn ngơ nghĩ suy, liên tưởng, ước ao rồi nhung nhớ...







Mỗi sáng nghe âm thanh tiếng còi xe lửa vọng lại, không gian rộn ràng lên tí xíu rồi trở lại êm đềm. Tiếng còi tàu gợi lại những trang sách xưa đã đọc, những bài hát xưa đã nghe, những lời thơ xưa vẫn nhớ... Thế nhưng tiếng còi tàu ở đây không gợi một hình ảnh sân ga hiện thực đã từng trải nghiệm thật là đông đúc hay một ga lẻ hiu hắt trong tác phẩm Thạch Lam, một nghẹn ngào trong vần thơ của Tế Hanh! Mà nó như một âm thanh rộn ràng, nhắc nhở mọi người một ngày mới lại đến rồi đây!


Hơn tháng nay đến chơi đây, hòa trong nhịp thở của không gian này, lòng cũng cơ chừng dịu nhẹ hơn, như lắng nghe được bước đi của thời gian uyển chuyển, nhất là giữa buổi chiều về. Nó làm cho lòng người quay trở lại với bao nhiêu năm tháng cũ. Nó cũng làm cho con người ta bâng khuâng tiếc nhớ những gì đã trôi qua..." không gian như có giây tơ. Bước đi sẽ dứt, động hờ sẽ tan", câu thơ cũ của phong trào Thơ mới ngày xưa (đúng ra là không nhớ chính xác tên tác giả nên phải nói chung chung vậy! :-). Xin thứ lỗi ) cứ luôn âm vang trong tâm tưởng cùng với muôn vàn buổi chiều trong quá khứ chen nhau hiện về... Từ những buổi chiều thời mới lớn, đạp xe đi học, áo trắng qua cầu, nhìn nắng chiều lấp loáng trên sông... những buổi chiều mờ sương Đà lạt, từ ký túc xá nhìn qua khung cửa sổ không thấy rõ Đồi Cù hay đi bộ ngang Hồ Xuân Hương qua Bưu Điên khu Nhà thờ con gà.gió se  se lạnh...Cho đến những buổi chiều nắng đồng bằng vàng ngọt trong sân trường Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho. Và...biết mấy buổi chiều khác của những chặng đời vui buồn trong cuộc sống...những kỷ niệm quý giá với chồng con...
Nhớ thời sắp ra trường, ngồi với bạn bè trong nhóm Dzoãn Vân, Thuần, Tuyết, Thủy Nguyễn, Bông, Thảo...trước khoảng sân nhà bên Phú Nhuận, nghe Vân hát Niệm khúc Cuối, Nghe Tuyết hát Tìm đâu (không nhớ tên bài hát nhưng nhớ những từ "tìm đâu" cứ lập đi lập lại làm những trái tim mềm nhũn tội nghiệp lúc đó không ngừng thổn thức. Nhớ cái vạt nắng trên sân đã làm ai đó buột miệng: Buổi chiều hay làm lòng người ta nhung nhớ!


Ờ, hồi đó hai mươi cảm nhận như vậy. Và giờ sáu mấy rồi cũng thấy chiều về thường gợi nhớ. Nhớ từ thời cổ lỗ sỉ, thời Ông cố ông sơ gì cũng nhớ luôn. Dù giờ đây là những-buổi-chiều-vàng cũng làm cho con người dễ bị ngẩn ngơ...